Ung thư tinh hoàn (UTTH) là bệnh ác tính phổ biến nhất ở nam giới trẻ tuổi, bao gồm 2 nhóm lớn: 95% là khối u tế bào mầm, 5% không phải tế bào mầm. U tế bào mầm chia ra 2 loại: nhóm u tinh (seminoma) và nhóm u mầm không phải tế bào dòng tinh. Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư tinh hoàn bao gồm: Có u cục và càng ngày càng lớn ở một trong hai tinh hoàn; Cảm giác nặng nề ở bìu; Có cơn đau âm ỉ ở bụng hoặc háng; Có chất dịch lỏng trong bìu; Đau hoặc khó chịu ở tinh hoàn hoặc bìu; Vú to hoặc đau; Đau lưng; Ung thư thường chỉ ảnh hưởng đến một tinh hoàn.
Vì vậy, bạn hãy gặp bác sĩ sớm nếu có bất kỳ triệu chứng đau, sưng hoặc vón cục ở tinh hoàn hay háng, đặc biệt là nếu các dấu hiệu và triệu chứng này kéo dài hơn 2 tuần. Chẩn đoán ung thư tinh hoàn rong một số trường hợp, nam giới vô tình hoặc phát hiện khi đi khám sức khỏe thì phát hiện khối u ở tinh toàn. Trong các trường hợp khác, bác sĩ có thể phát hiện một khối u trong khi quá trình kiểm tra sức khỏe. Để xác định xem khối u đó có phải là ung thư tinh hoàn hay không, bác sĩ có thể chỉ định một số xét nghiệm như:
Siêu âm có phát hiện ung thư tinh hoàn?
Siêu âm tinh hoàn sử dụng sóng âm thanh để tạo ra hình ảnh. Trong siêu âm, bạn sẽ nằm ngửa và 2 chân dang rộng. Bác sĩ sẽ bôi loại gel vào bìu để giúp hình ảnh siêu âm được rõ ràng. Một đầu dò cầm tay được di chuyển qua bìu để tạo ra hình ảnh siêu âm.
Siêu âm giúp bác sĩ xác định bản chất của khối u tinh hoàn, chẳng hạn như các khối u là rắn hoặc chứa đầy chất lỏng. Siêu âm cũng cho bác sĩ biết liệu khối u ở bên trong hay bên ngoài tinh hoàn.
Xét nghiệm máu
Bác sĩ có thể chỉ định các xét nghiệm máu để xác định chất chỉ điểm ung thư trong máu. Chất chỉ điểm ung thư là những chất bình thường vẫn có trong máu của bạn, nhưng mức độ của các chất này có thể tăng lên trong một số trường hợp của bệnh, trong đó có ung thư tinh hoàn. Mức độ cao của chất chỉ điểm ung thư trong máu không có nghĩa chắc chắn là bạn bị ung thư, nhưng nó có thể giúp bác sĩ định hướng chẩn đoán.
Điều trị ung thư tinh hoàn
Các phương pháp để điều trị ung thư tinh hoàn phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm loại và giai đoạn ung thư, sức khỏe tổng thể cũng như nguyện vọng của người bệnh.
Phẫu thuật được chỉ định trong các trường hợp như sau:
Phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn là phương pháp điều trị chính cho gần như tất cả các giai đoạn và loại ung thư. Để loại bỏ tinh hoàn, bác sĩ phẫu thuật thực hiện một vết mổ ở háng và lấy toàn bộ tinh hoàn thông qua lỗ mở. Sau đó, bác sĩ sẽ đặt tinh hoàn giả chứa đầy nước muối có thể được đặt vào bìu. Trong trường hợp ung thư tinh hoàn giai đoạn đầu, người bệnh chỉ cần phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn là phương pháp điều trị duy nhất.
Phẫu thuật để loại bỏ các hạch bạch huyết gần đó được thực hiện thông qua một vết mổ ở bụng. Bác sĩ phẫu thuật sẽ cẩn thận thực hiện để tránh làm tổn thương các dây thần kinh xung quanh các hạch bạch huyết, nhưng trong một số trường hợp có thể không tránh khỏi tổn thương cho dây thần kinh. Các dây thần kinh bị tổn thương có thể gây khó khăn khi xuất tinh, nhưng sẽ ảnh hưởng đến cương cứng.
Xạ trị:
Xạ trị sử dụng các chùm năng lượng mạnh như tia X để tiêu diệt các tế bào ung thư. Trong quá trình xạ trị, người bệnh nằm trên bàn và một cỗ máy lớn di chuyển xung quanh cơ thể để nhắm các chùm năng lượng vào điểm đã định xác định từ trước trên cơ thể người bệnh. Liệu pháp xạ trị có thể được thực hiện đơn độc hoặc sau khi người bệnh đã phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn. Tác dụng phụ của xạ trị bao gồm buồn nôn, mệt mỏi, đỏ da, kích ứng ở vùng bụng và háng. Xạ trị cũng có khả năng làm giảm số lượng tinh trùng và ảnh hưởng đến khả năng sinh sản ở một số nam giới, do đó người bệnh cần được bác sĩ tư vấn về các lựa chọn để bảo quản tinh trùng trước khi bắt đầu xạ trị.
Nếu phát hiện và điều trị bệnh kịp thời, tỷ lệ bệnh nhân ung thư tinh hoàn sống trên 5 năm có thể lên đến hơn 95%. Thông thường khi khối u chưa di căn, bác sĩ sẽ chỉ định cắt bỏ bên tinh hoàn có khối u. Đối với những trường hợp đã di căn thì cần kết hợp phẫu thuật với các phương pháp khác để đạt kết quả cao nhất, chẳng hạn như xạ trị hay hóa trị. Thông thường, khi đã di căn, tỉ lệ sống trên 5 năm sẽ giảm còn 73%.